Sách đa phương tiện
Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc Cống còn có tên gọi khác là Xắm Khống, Phuy A. Họ có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến, ngữ hệ Hán-Tạng
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, đồng bào Cống ở Việt Nam có 2.729 người, cư trú chủ yếu ở vùng núi Tây Bắc.
Đến nay, người Cống vẫn gìn giữ, bảo tồn được những nét văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc như các lễ nghi trong cưới hỏi, thờ cúng… hay lễ tết, điệu dân ca Con gà gáy le te mang hơi thở của núi rừng Tây Bắc.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân tộc Thái có 1.820.950 người, đứng thứ ba về dân số tại Việt Nam, sau người Kinh và người Tày.

Người Thái bao gồm hai nhóm lớn là: Thái Đen (Táy Đăm) và Thái Trắng (Táy Đón hayTáy Khao). Họ có ngôn ngữ và chữ viết riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, ngữ hệ Thái – Kađai.

Trải qua quá trình tồn tại và phát triển, người Thái đã tạo dựng cho mình những bản sắc văn hoá riêng của tộc người, góp phần làm nên một nền văn hoá đa sắc màu cho dân tộc Việt Nam.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc La Hủ trước kia có nhiều tên gọi khác nhau như Xá Toong Lương (Xá Lá Vàng), Kha Quy (Xá Quỷ), "Xá" pươi (người "Xá" ở trần), Khù Sung... La Hủ là tên tự gọi, hiện nay trở thành tên chính thức. Người La Hủ bao gồm các nhóm địa phương La Hủ Sư  gọi là La Hủ Vàng chiếm đa số thành phần cư dân của tộc người, La Hủ Na gọi là La Hủ Đen và La Hủ Phung gọi là La Hủ Trắng có dân số ít hơn cả.
Tiếng nói của người La Hủ thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, ngữ hệ Hán - Tạng. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân tộc La Hủ ở Việt Nam có 12.113 người.
Người La Hủ hiện nay còn lưu truyền được nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần phong phú, độc đáo.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc Mảng còn có tên gọi khác là Mảng Ư, Xá Mảng, Niểng O, Xá Bá O, là tộc người xuất hiện từ rất sớm ở vùng Tây Bắc Việt Nam.
Người Mảng được chia thành hai nhóm là Mảng Gứng (người Mảng ở trên sườn núi) và Mảng Hệ (người Mảng ở dưới thấp), với nhiều nét tương đồng về tập tục trong sinh hoạt, tín ngưỡng, ngôn ngữ…
Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân tộc Mảng ở nước ta có 4.650 người. Họ có tiếng nói riêng, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ-me, ngữ hệ Nam Á.
Trải qua quá trình phát triển, người Mảng đã tạo dựng cho mình bản sắc văn hoá riêng, góp phần làm nên một nền văn hoá đa sắc màu cho dân tộc Việt Nam.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc Lự hay còn gọi là Phù Lừ, Nhuồn, Duồn. Ở Việt Nam hiện nay chỉ có nhóm Lự Ðen (Lừ Ðăm). Tiếng nói của người Lự thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, ngữ hệ Thái -Kađai.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân tộc Lự có 6.757 người.
Dân tộc Lự còn gìn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo, góp phần tô thêm bức tranh văn hóa đa màu sắc của các dân tộc ở Việt Nam.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc Hmông còn có các tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng, bao gồm các nhóm địa phương: Hmông Trắng, Hmông Hoa, Hmông Ðỏ, Hmông Ðen, Hmông Xanh, Na Miẻo. Tiếng nói của người Hmông thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Hmông có 1.393.547 người.
Đồng bào Hmông có một đời sống tinh thần, tâm linh đa dạng với các phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng mang đậm dấu ấn núi rừng. Nền văn hoá nghệ thuật với các truyện cổ dân ca, nhạc cụ đa dạng. Tất cả tạo cho dân tộc Hmông một nền văn hóa không thể hòa lẫn với các dân tộc khác.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Người Dao có các tên gọi khác như: Mán, Đông, Trại… là một trong những dân tộc thiểu số cư trú lâu đời tại vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, đồng bào Dao có 891.151 người. Người Dao ở Việt Nam bao gồm các nhóm địa phương là: Dao Đỏ, Dao Quần chẹt, Dao Lô gang, Dao Tiền, Dao Quần trắng... Tiếng nói của họ thuộc ngữ hệ Mông - Dao. Dân tộc Dao sống du canh, du cư trên phạm vi rất rộng dọc theo biên giới Việt - Trung, Việt - Lào cho tới một số tỉnh trung du. Họ sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và ruộng nước. Người Dao tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và Ðạo giáo. Bàn Vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú gồm nhiều thể loại như: truyện cổ, bài hát, thơ ca... Nghệ thuật trình diễn được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo. Cộng đồng dân tộc Dao ở Việt Nam đã tạo dựng nên các giá trị văn hóa truyền thống độc đáo.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc Nùng cư trú ở vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam từ khoảng 200 năm trước. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, đồng bào Nùng có số dân đông đứng thứ 7 tại Việt Nam với 1.083.298 người. Họ cư trú tập trung ở các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Ninh... Người Nùng ở Việt Nam gồm các nhóm địa phương: Nùng Giang, Nùng Xuồng, Nùng An, Nùng Inh, Nùng Lòi, Nùng Cháo, Nùng Phàn Slình, Nùng Quy Rịn, Nùng Dín... Họ nói tiếng Nùng, thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái.

Sống ở vùng rừng núi, người Nùng luôn đề cao vai trò, vị trí của rừng trong sản xuất, đời sống, có ý thức bảo vệ và tích cực trồng rừng, tận dụng từng hốc đá trồng cây, gieo giống.

Dân tộc Nùng có truyền thống lịch sử phát triển lâu đời và hiện vẫn giữ được nhiều phong tục tập quán văn hoá độc đáo, điển hình là lễ hội Lùng Tùng. Đồng bào cũng gìn giữ được nhiều truyện kể dân gian, truyện thơ và các làn điệu múa, hát cổ truyền.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Bố Y còn được gọi là Chủng Chá, Trọng Gia là một dân tộc cư trú phía Bắc Việt Nam.
Người Bố Y gồm 2 nhóm: Bố Y nói ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai) và nhóm Tu Dí nói ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019, đồng bào Bố Y có 3.232 người, cư trú tại 14 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Họ sống tập trung chủ yếu ở vùng Hà Giang, Lào Cai, Tuyên Quang, Yên Bái.
Trải qua quá trình phát triển, cộng đồng dân tộc Bố Y ở Việt Nam đã tạo dựng nên các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc. Từ việc canh tác nương rẫy, ruộng bậc thang, kiến trúc nhà ở, ẩm thực, trang phục truyền thống cho đến các phong tục tập quán, loại hình sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật… đã góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa các dân tộc ở Việt Nam. 

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Người Giáy là một trong những dân tộc cư trú lâu đời ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam. Họ sống tập trung ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu, Cao Bằng.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân tộc Giáy có 67.858 người. Tiếng Giáy thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái, ngữ hệ Thái – Kađai.
Người Giáy có kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc, nền văn hóa vật chất và tinh thần phong phú, mang bản sắc riêng.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc Hà Nhì hay còn gọi là U Ní, Xá U Ní là một dân tộc sinh sống lâu đời ở vùng núi Tây Bắc Việt Nam. Người Hà Nhì ở Việt Nam bao gồm các nhóm địa phương: Hà Nhì Cồ Chồ, Hà Nhì La Mí, Hà Nhì Đen, họ có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, ngữ hệ Hán - Tạng.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân tộc Hà Nhì có 25.539 người.
Đồng bào Hà Nhì có đời sống tinh thần đa dạng với các phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng mang đậm dấu ấn núi rừng. Tất cả tạo nên một nền văn hóa mang nét riêng biệt, không thể hòa lẫn.

Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam

Dân tộc La Chí là một trong những dân tộc thiểu số có lịch sử cư trú lâu đời ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Theo Tổng Điều tra dân số và nhà ở năm 2019, đồng bào La Chí có 15.126 người, họ sống tập trung tại huyện Mường Khương, huyện Bắc Hà (tỉnh Lào Cai), huyện Xín Mần (tỉnh Hà Giang), tỉnh Tuyên Quang. Người La Chí có tiếng nói riêng, thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai (ngữ hệ Thái – Ka Đai). Họ có nhiều tên gọi khác nhau như Thổ Đen, Mán La Chí, Xá... nhưng tên La Chí phổ biến hơn cả.
Người La Chí sống theo từng bản trên các sườn núi đất cao. Gia đình người La Chí mang tính chất phụ quyền, người đàn ông điều khiển mọi công việc trong nhà. Họ theo chế độ hôn nhân một vợ một chồng và ít xảy ra hiện tượng ly dị cũng như đa thê. Người La Chí thờ cúng tổ tiên, tổ tiên được cúng ba đời đối với nam, hai đời đối với nữ.